PMI tháng 7 đạt 45.1 điểm, các điều kiện kinh doanh giảm đáng kể tháng thứ hai liên tiếp

PMI tháng 7 đạt 45.1 điểm, các điều kiện kinh doanh giảm đáng kể tháng thứ hai liên tiếp

Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (Purchasing Managers’ Index - PMI) ngành sản xuất Việt Nam tăng từ 44.1 điểm của tháng 6 lên 45.1 điểm trong tháng 7. Tuy nhiên, số liệu lần này cho thấy các điều kiện kinh doanh của lĩnh vực sản xuất suy giảm đáng kể tháng thứ hai liên tiếp.

Số liệu thống kê chưa đầy đủ từ các nhà sản xuất đã nêu bật ảnh hưởng của đợt bùng phát Covid-19 hiện nay đối với hoạt động sản xuất. Một số công ty buộc phải đóng cửa tạm thời, trong khi các công ty khác phải hoạt động cầm chừng do các biện pháp giãn cách xã hội.

Những ảnh hưởng này, cùng với sự sụt giảm đáng kể số lượng đơn đặt hàng mới, đã làm giảm mạnh sản lượng ngành sản xuất vào đầu quý 3. Mức giảm sản lượng chỉ thấp hơn so với mức được ghi nhận sau đợt bùng phát đại dịch Covid-19 vào tháng 3 và tháng 4 năm ngoái.

Cùng với việc giảm tổng số lượng đơn đặt hàng mới, số lượng đơn đặt hàng mới từ nước ngoài cũng giảm. Tuy nhiên, mức giảm của các đơn hàng xuất khẩu nhẹ hơn so với tổng số đơn đặt hàng mới khi một số báo cáo cho biết nhu cầu trên thị trường quốc tế cải thiện.

Khối lượng công việc giảm, các trường hợp đóng cửa tạm thời và hạn chế số nhân viên do yêu cầu giãn cách xã hội đã khiến việc làm giảm đáng kể tháng thứ hai liên tiếp.

Trong khi sự gián đoạn trong hoạt động làm cho lượng công việc tồn đọng tăng tại một số công ty, tình trạng này bị lấn át bởi mức giảm mạnh của số lượng đơn đặt hàng mới. Về tổng thể, lượng công việc chưa thực hiện giảm nhẹ.

Sự gián đoạn nghiêm trọng của chuỗi cung ứng được ghi nhận trong tháng 7, với mức độ chậm trễ đáng kể nhất kể từ khi khảo sát bắt đầu từ hơn một thập kỷ trước. Nguyên nhân kéo dài thời gian giao hàng do khó khăn trong khâu vận chuyển cả trong nước và quốc tế vì đại dịch, cũng như tình trạng khan hiếm nguyên vật liệu.

Các nhà sản xuất cũng đối mặt tình trạng chi phí đầu vào tăng. Tốc độ tăng chi phí đầu vào nhanh hơn, thành mức nhanh nhất kể từ tháng 4/2011. Chi phí tăng đối với các nguyên vật liệu như sắt, thép, các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc và cước phí vận chuyển.

Trong khi một số công ty chuyển gánh nặng chi phí tăng này cho khách hàng, các công ty khác lại ngần ngại làm việc đó vì tình trạng nhu cầu yếu. Kết quả là, tốc độ tăng giá cả đầu ra chậm hơn nhiều so với chi phí đầu vào, từ đó tạo áp lực lên biên lợi nhuận.

Những lo lắng về ảnh hưởng hiện nay của đại dịch khiến niềm tin kinh doanh trong tháng 7 vẫn ở mức thấp hơn trung bình của lịch sử chỉ số, mặc dù các công ty nhìn chung vẫn lạc quan về khả năng tăng trưởng sản lượng trong năm tới.

Bình luận về kết quả khảo sát mới đây, ông Andrew Harker, Giám đốc Kinh tế tại IHS Markit, nói:

Theo dữ liệu chỉ số PMI mới nhất, làn sóng đại dịch Covid-19 hiện nay đang ảnh hưởng nghiêm trọng lên các nhà sản xuất Việt Nam, khi tình trạng đóng cửa công ty và giãn cách xã hội góp phần làm sản lượng giảm mạnh.

Các quy định giãn cách cũng hạn chế số nhân viên có mặt tại nơi làm việc, từ đó tiếp tục ảnh hưởng đến các dây chuyền sản xuất. Ngoài vấn đề giảm số lượng đơn đặt hàng mới và sản lượng, các công ty cũng đang đối mặt tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng nghiêm trọng. Thời gian giao hàng của nhà cung cấp bị kéo dài với mức độ lớn hơn thời điểm sau đợt bùng phát đại dịch lần đầu năm ngoái và áp lực giá cả tăng.

Lĩnh vực sản xuất có thể vẫn chịu áp lực và khó tăng trưởng cho đến khi đợt bùng phát dịch lần này được kiểm soát, nên điều quan trọng là cần theo dõi số lượng ca nhiễm Covid-19 để cho thấy dấu hiệu cải thiện”.

Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất tại Việt Nam (The Nikkei Vietnam Manufacturing PMI) dựa theo dữ liệu khảo sát hàng tháng được gửi đến các nhà quản trị mua hàng của hơn 400 doanh nghiệp ngành công nghiệp (industrial companies). Bảng dữ liệu được phân loại theo GDP và quy mô lực lượng lao động doanh nghiệp. Lĩnh vực sản xuất (manufacturing sector) được chia thành 8 mảng: Kim loại (basic metals), hóa chất và nhựa (chemicals & plastics), điện và quang học (electrical & optical), thực phẩm và đồ uống (food & drink), kỹ thuật cơ khí (mechanical engineering), dệt và may mặc (textiles & clothing), giấy và gỗ (timber & paper), vận chuyển (transport).

Gia Nghi

FILI